Toàn cảnh hiện trường vụ sạt lở ở Trà Leng nhìn từ trên cao. Ảnh: Soha
Tỉnh Quảng Nam có địa hình nghiêng dần từ Tây sang Đông với ba dạng chính: vùng núi cao ở phía Tây chiếm 72% diện tích tự nhiên với nhiều ngọn núi cao trên 2.000m, mức độ chia cắt mạnh, độ cao trung bình 700-800m, độ dốc trung bình 25o~30o, có nơi trên 45o; vùng trung du ở giữa với độ cao trung bình 100-200m, độ dốc trung bình 15o~20o, địa hình có dạng bát úp, lượn sóng, mức độ chia cắt trung bình.
Mùa mưa từ tháng 8-12, mùa khô từ tháng 1-7 với lượng mưa trung bình năm khoảng 2800-3000mm/năm. Mưa phân bố không đều theo thời gian: cao nhất vào các tháng 10, 11, trung bình từ 550-1000 mm/tháng. Lượng mưa phân bố không đều theo không gian, có chiều hướng tăng dần từ phía biển vào sâu trong đất liền; lớn nhất phân bố ở huyện Nam Trà My (từ 3600-4000mm/năm), tiếp theo đến các huyện từ huyện Tây Giang, Đông Giang, Nam Giang đến Phước Sơn (3200-3600mm/năm), những chỉ số địa hình, khí hậu này mang lại nhiều nguy cơ sạt lở đất.
Hiện tượng sạt lở đất có xu hướng tăng lên
Trong 5 năm gần đây, sạt lở đất diễn ra thường xuyên ở một số huyện miền núi của tỉnh, số lần xuất hiện có xu hướng tăng lên và tăng đột biến, cụ thể: Năm 2017, toàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ sạt lở đất, trong đó Bắc Trà My có 6 vụ, Nam Trà My 2 vụ, Phước Sơn 2 vụ gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
Chỉ riêng đợt mưa lũ đầu tháng 11.2017, toàn tỉnh đã có 16 người chết và mất tích do sạt lở đất, các quốc lộ 40B, 14B, 14D, 14E, 40B và 24C bị sạt 42 vị trí. Có thể kể đến một số vụ nghiêm trọng như ngày 5.11.2017 sạt lở đất tại thôn Đàn Bộ và thôn Đàn Nước thuộc thị trấn Trà My (huyện Bắc Trà My) làm vùi lấp nhiều ngôi nhà, làm chết 5 người và nhiều người bị thương, đất đá sạt xuống làm ách tắc nhiều đoạn trên tuyến đường giao thông huyết mạch nối hai huyện Bắc Trà My và Nam Trà My liên tục trong nhiều ngày.
Thôn 1, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My bị san phẳng sau vụ sạt lở núi vào chiều 28.10.2020. Ảnh: Ngọc Thành/Vnexpress
Ngày 8.11.2017, sạt lở núi ở công trình thủy điện Trà My 1 và Trà My 2 đã chôn vùi 4 công nhân. Ngày 5.11.2017, sạt lở ở thôn 5, xã Trà Bui đã vùi lấp hoàn toàn 10 ngôi nhà, chính quyền đã kịp di dời hơn 60 người dân khỏi khu vực nguy hiểm do đó chưa có thiệt hại về người.
Ngày 05.11.2017, tại Phước Sơn cũng đã xảy ra vụ sạt lở núi làm 5 người chết.
Năm 2020 có thể nói là một năm xảy ra thiên tai bất thường nhất kể từ năm 2009 đến nay trên khu vực miền Trung với thời gian mưa, lượng mưa gây ngập lụt, bão và sạt lở đất kỷ lục. Riêng lũ quét, sạt lở đất tại Quảng Nam năm 2020 đã làm 23 người chết, 23 người mất tích, gây thiệt hại nặng về dân sinh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (các công trình giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế,…), cơ sở sản xuất và nhà ở của người dân; ước tính sơ bộ tổng thiệt hại khoảng 8.136 tỷ đồng…
Nguy cơ, hiểm họa và thiệt hại từ sạt lở đất là rất lớn đối với các khu vực trên, tuy nhiên vấn để chủ động nhận biết, phòng tránh và ứng phó đối với loại hình thiên tai này ở các địa phương hiện nay còn rất hạn chế.
Một số hình ảnh tình hình sạt lở đất tại Quảng Nam.
Đi tìm nguyên nhân gây sạt lở đất
Kết quả nghiên cứu ban đầu đã chỉ rõ ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu, gồm độ dốc là yếu tố quan trọng phát sinh trượt lở đất. Những kết quả khảo sát, đo vẽ chi tiết ngoài thực địa cho thấy, mức độ trượt lở đất theo từng bậc độ dốc là khác nhau. Với mức độ dốc >25o thì trượt lở đất diễn ra với mật độ, tần suất xuất hiện và quy mô khối trượt thuộc loại lớn nhất.
Địa mạo: Nhóm yếu tố tác động phát sinh nứt đất, trượt lở đất bao gồm các yếu tố mức độ uốn nếp và phân cắt của địa hình thể hiện qua yếu tố mật độ chia cắt ngang, mật độ chia cắt sâu địa hình.
Yếu tố lượng mưa: Các vụ sạt lở đất thường xuất hiện trùng hoặc sau 1 ngày so với thời gian xuất hiện mưa 1 ngày lớn nhất trong tháng, và trước khi xảy ra sạt lở đất trên khu vực đã có xảy ra mưa kéo dài từ 3-5 ngày với tổng lượng mưa lớn hơn hoặc bằng 460mm; Hoặc mưa 1 ngày với cường độ mưa ≥ 210mm và trước đó 3-5 ngày xảy ra mưa nhỏ với lượng mưa từ 40-60mm để làm bão hòa đất.
Yếu tố địa chất công trình: Là yếu tố có vai trò quan trọng trong việc phát sinh trượt lở, trượt lở diễn ra trên cả trầm tích bở rời hỗn hợp. Trong đó, trầm tích bở rời hỗn hợp aluvi, proluvi, deluvi có mức độ trượt lở mạnh nhất.
Theo kết quả khảo sát địa vật lý tại một số vị trí trên địa bàn huyện Nam Trà My, Bắc Trà My và Phước Sơn đều chỉ rõ cấu tạo địa tầng bao gồm lớp phủ bề mặt có chiều dày từ 3-20m, là lớp đất đá phong hóa mạnh, bở rời, độ kết dính kém và nằm trên lớp đá granit. Khi gặp mưa lớn và nhiều ngày, lớp phủ bị bão hòa và gây sạt trượt.
Kết quả khảo sát địa vật lý bằng máy địa vật lý đa cực Ares tại mặt cắt thôn 1 xã Trà Mai, huyện Nam Trà My.
Yếu tố thảm phủ thực vật rừng có vai trò quan trọng trong phát sinh trượt lở đất. Sự suy giảm độ che phủ thực vật dẫn đến tăng cường phong hoá, phá huỷ kết cấu, tính bền vững của đất, đá, tạo môi trường trượt lở; giảm độ che phủ thực vật dẫn đến tăng cường xói mòn, tăng lưu lượng dòng chảy mặt, phá huỷ kết cấu đất đá, tính bền vững thấp, gây trượt lở trên diện rộng.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải cắt núi, bạt đồi tạo mái ta luy... do đó ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc địa hình (độ dốc, phân cắt địa hình...), phá vỡ cấu trúc địa chất kết hợp với các yếu tố khác như thoát nước mưa, thay đổi thảm phủ tự nhiên của mái dốc đã tác động đến vấn đề sạt lở trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác tác động đến sạt lở đất như hoạt động kinh tế - xã hội như: khai thác khoáng sản, khai thác rừng, xây dựng và vận hành các công trình khai thác nước trên lưu vực không phù hợp đã làm thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực...
Kết quả nghiên cứu tại tỉnh Quảng Nam đã chỉ rõ: độ dốc, mưa lớn kéo dài, địa chất, chất lượng của thảm phủ rừng và cơ sở hạ tầng là các nguyên nhân chính tác động đến sạt lở đất. Phần lớn các trận sạt lở đất xảy ra vào mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 12) của những năm mưa nhiều, tổng lượng mưa cao.
Xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở đất tại tỉnh Quảng Nam
Kết quả xây dựng các bản đồ đơn nhân tố như sau:
- Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố độ dốc: theo 4 cấp độ thấp (0-7o), trung bình (>25o), cao và rất cao (15-25o). Dựa trên bản đồ độ cao DEM do Cục bản đồ cấp năm 2018, sử dụng công cụ phân tích không gian trong phần mềm ArcGis tính toán độ dốc khu vực và công cụ Reclassify phân chia các mức độ ảnh hưởng theo các cấp đã xây dựng. Kết hợp với số liệu điều tra các điểm sạt lở đất tương ứng với các độ dốc để đánh giá, lựa chọn độ dốc ứng theo từng cấp ảnh hưởng, từ đó xây dựng bản đồ phần vùng cho yếu tố độ dốc.
- Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố mưa: theo 4 cấp độ thấp (350mm), trung bình (350-400mm), cao (400-460mm) và rất cao (>460mm). Bản đồ được xây dựng dựa trên chuỗi số liệu mưa ngày tại 14 trạm của tỉnh; số liệu lượng mưa 5 ngày gây sạt lở đất tại các trạm đại biểu cho các vị trí đã xảy ra sạt lở đất để xác định lượng mưa ứng với các cấp độ. Sử dụng công cụ IDW trong ArcGIS để xây dựng bản đồ cho yếu tố mưa.
- Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố địa chất thủy văn: dựa trên số liệu về đặc điểm địa chất thủy văn của tỉnh, kết hợp với bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố địa chất thủy văn của tỉnh Quảng Nam do Viện Địa Chất thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam xây dựng năm 2014 để xây dựng bản đồ cho yếu tố địa chất thủy văn.
- Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố địa chất công trình: dựa trên số liệu về đặc điểm địa chất công trình, và bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố địa chất công trình của Quảng Nam do Viện Địa chất xây dựng năm 2014 để xây dựng bản đồ cho yếu tố địa chất công trình; và Kết quả khảo sát Địa vật lý năm 2019 của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên thực hiện.
- Xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho yếu tố thảm phủ: phân theo 4 cấp thấp (chỉ số NDVI từ 0,8-1), trung bình (0,5-0,8), cao (0,2-0,5) và rất cao ((-1)-0,2). Sử dụng nguồn ảnh vệ tinh Landsat 8 và kiểm tra với bản đồ hiện trạng sử dụng đất của khu vực nghiên cứu; bằng phương pháp viễn thám và GIS để phân vùng và xây dựng bản đồ cho yếu tố thảm phủ.
- Xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở đất cho toàn tỉnh: Dựa vào bảng trọng số nhân tố và bản đồ đơn yếu tố đã xây dựng; sử dụng phép phân tích Weight overlay trong phần mềm ArcGis chồng lớp bản đồ xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở đất cho toàn tỉnh.
Kết quả phân vùng nguy cơ sạt lở đất cho thấy, toàn tỉnh có 95 điểm có nguy cơ sạt lở cao trong đó huyện: Nam Trà My 14 điểm; Bắc Trà My 30 điểm; Phước Sơn 13 điểm; Tây Giang 6 điểm; Nam Giang 12 điểm; Đông Giang 4 điểm; Hiệp Đức 6 điểm; Nông Sơn 4 điểm và Tiên Phước 4 điểm.
Một số vị trí cụ thể tại 3 huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn như sau:
Giải pháp phòng tránh sạt lở đất phục vụ bố trí dân cư miền núi
Với giải pháp phi công trình, cần rà soát đánh giá mức độ an toàn đối với khu vực dân cư đang sinh sống thuộc các khu vực có nguy cơ cao bị sạt lở đất, lũ quét như đã xảy ra trong năm 2020. Tập trung tại các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn và Tây giang. Trên cơ sở số liệu điều tra, khảo sát địa hình, địa chất, địa vật lý, khí tượng thủy văn, mặt đệm, phân bố dân cư, cơ sở hạ tầng... thực tế và số liệu dự báo ngưỡng gây sạt lở đất của các cơ quan chuyên môn cụ thể để từ đó có phương án di dời hẳn hay di dời tạm thời theo thời điểm cụ thể.
Cần phải tìm được vị trí an toàn cao nhất có thể bởi vì khu vực miền núi thì quỹ đất bằng đáp ứng các yêu cầu có thể bố trí được một làng, bản không phỉ đơn giản. Chính vì vậy trước khi quy hoạch và bố trí dân cư thì phải tránh các vị có nguy cơ sạt lở đất cao được cơ quan chuyên môn cảnh báo trước. Đối với một khu đất cụ thể cần phải được khảo sát địa hình, địa chất, địa vật lý cẩn thận vì bằng mắt thường không thể khẳng định được nên chúng ta rất dễ nhầm. Bởi có nhưng khu đất bằng nhưng lại nằm trên các khối trượt lớn, đứt gãy như ở xã Trà Mai, huyện Nam Trà My hay các khu vực bãi bồi ven sông không an toàn như ở xã Phước Thành, huyện Phước Thành.
Giải pháp tiếp theo là rà soát quy hoạch bố trí dân cư, cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường giao thông, cống thoát nước phải đủ khẩu độ thoát được lũ lớn, ....) các huyện miền núi nơi thường xảy ra thiên tai đặc biệt là thiên tai bất thường như năm 2020. Rà soát quy hoạch giữa các ngành Xây dựng, Giao thông, Thủy lợi khu vực miền núi một cách chặt chẽ. Trong quy hoạch cần phải chú ý các thiên tai bất thường có thể xảy ra để có giải pháp thích ứng. Tăng mật độ trạm đo mưa tự động để nâng cao công tác cảnh báo chính xác hơn cũng như xây dựng hệ thống cảnh báo sạt lở đất, lũ quét tại các khu vực dân cư có nguy cơ cao. Bên cảnh đó phải đào tạo, tập huấn, hướng dẫn người dân kỹ năng nhận biết về phòng tránh thiên tai nói chung và Sạt lở đất, lũ quét nói riêng.
Để phòng tránh sạt lở đất cần xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất tới cấp huyện tỷ lệ 1/5.000 và cấp xã tỷ lệ (1/1.000 - 1/2.000) và phổ biến tới chính quyền cấp xã, thôn và người dân biết. Hiện nay, Viện Khoa học thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên đã xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất cho 3 huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn với tỷ lệ 1/50.000 và toàn tỉnh 1/100.000. Nghiên cứu bổ sung xây dựng bộ tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp trong quy hoạch, thiết kế công trình xây dựng vùng có thiên tai với các yêu cầu cao hơn.
Cần rà soát và đánh giá để đưa ra tỷ lệ các loại rừng trồng, rừng tự nhiên cũng như phương thức khai thác hợp lý để nâng cao chất lượng thảm phủ rừng nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ gia tăng lũ lụt, sạt lở đất và lũ quét. Bởi vì rừng có vai trò hết sức quan trọng trong điều hòa dòng chảy mặt, dòng chảy ngầm cũng như ổn định của các mái dốc sườn đồi. Có cơ chế chia sẻ lợi ích giữa người dân khu vực này với các nhà đầu tư khai thác tài nguyên trên khu vực một cách hợp lý.
Hình ảnh những thứ sót lại ở hiện trường sạt lở ở Trà Leng là đống đổ nát, hoang tàn... Ảnh: Soha
Về giải pháp công trình, cần nghiên cứu các mẫu nhà phù hợp, an toàn như nhà cộng đồng để khi có cảnh báo xảy ra thiên tai thì người dân có thể tránh trú trong những thời điểm mưa bão, có nguy cơ sạt lở đất.
Các công trình giao thông cần phải tính toán hệ thống thoát nước trên đường như cầu, cống, mương thoát nước dọc và sườn đồi đảm bảo trong điều kiện thiên tai bất thường. Các cầu giao thông vượt sông phải tính đủ khẩu độ thoát lũ, hạn chế tối đa sự cản trở của mố trụ cầu. Nâng cao mức độ an toàn cho các mái dốc như bố trí các ống tiêu nước để giảm mực nước ngầm và áp lực lỗ rỗng, giảm độ dốc sườn đồi, bố trí các cơ hoặc các Neo xuyên qua các khối trượt.
Đối với công trình thủy lợi, thủy điện cần đánh giá lại khu vực có nguy cơ xảy ra sạt lở đất, đá khối lớn trong khu vực lòng hồ, có thể dẫn tới nguy cơ tạo ra các con sóng xung kích gây vỡ đập, nước tràn qua đỉnh đập gây mất an toàn cho công trình. Đối với các mái dốc đất đá trong tính toán thiết kế và thi công xây dựng cần phải xem xét đến yếu tố mưa lớn, thời gian kéo dài đối với khu vực miền núi...
Để chủ động ứng phó với sạt lở đất, giảm thiểu tác hại do sạt lở đất gây ra Trung ương, UBND Tỉnh cần cho triển khai đồng bộ các giải pháp công trình, phi công trình như đã trình bày trên. Chính Phủ cần dành ưu tiên nguồn lực nhiều hơn cho việc khắc phục, tái thiết cơ sở hạ tầng sau thiên tai cho miền Trung nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng để chính quyền và người dân yên tâm, ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế xã hội.
Kiểm nghiệm kết quả nghiên cứu sạt lở đất năm 2020 tại tỉnh Quảng Nam
Kết quả nghiên cứu ban đầu của Viện đã chỉ rõ mưa lớn kéo dài, độ dốc địa hình và điều kiện địa chất là nguyên nhân chính tác động tới sạt lở đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Phần lớn các vụ sạt lở đất xảy ra vào mùa mưa, từ tháng 9 đến tháng 12 của những năm mưa nhiều, tổng lượng mưa cao.
Các vụ sạt lở đất thường xuất hiện trùng hoặc sau một ngày so với thời gian xuất hiện mưa một ngày lớn nhất trong tháng, và trước khi xảy ra sạt lở đất trên khu vực đã có xảy ra mưa kéo dài từ 3-5 ngày với tổng lượng mưa lớn hơn hoặc bằng 460mm; Hoặc mưa 01 ngày với cường độ mưa ≥ 210mm và trước đó 3-5 ngày xảy ra mưa nhỏ với lượng mưa từ 40-60mm để làm bão hòa đất.
Kết quả thu thập từ năm 1999 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã xuất hiện khoảng 35 vụ sạt lở đất, trong đó 3 huyện Nam Trà My, Bắc Trà My và Phước Sơn đã xảy ra khoảng 13 vụ sạt lở đất tương đối lớn.
Đặc biệt, theo số liệu quan trắc mưa tại các trạm đo trên địa bàn tỉnh từ ngày 1.10 đến 8.11.2020 thì có tới 16 ngày mưa liên tục (6.10 đến 21.10) với tổng lượng mưa từ 1295-1836mm làm cho đất bão hòa nước và 12 ngày mưa liên tục (từ ngày 27.10 đến 7.11) với tổng lượng mưa từ 252-782mm.
Kết quả tính toán lượng mưa 5 ngày cho thấy từ ngày 11.10 tất cả các trạm đều vượt mức nguy cơ rất cao gây sạt lở đất (>460mm) và gần đây nhất là cơn bão số 9 (ngày 28.10) với lượng mưa 01 ngày lớn nhất đo được tại Phước Sơn là 320mm/ngày đã vượt mức nguy cơ rất cao gây sạt lở đất (>210mm) và cơn bão số 10 (ngày 611) với lượng mưa 01 ngày lớn nhất đo được tại Trà My là 408mm/ngày, tại Hiệp Đức là 251 mm/ngày, tại Tiên Phước là 203mm/ngày và tại Phước Sơn là 162mm/ngày.
TS. Hoàng Ngọc Tuấn, Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên