Bản thân tôi, với cương vị là Đại sứ Việt Nam tại Mỹ nhiệm kỳ 2014-2018, dịp này tôi cũng đã trả lời phỏng vấn nhiều báo. Thế nhưng khi nhận được lời đề nghị của Tạp chí Người Đô Thị, tôi vẫn muốn nhân dịp này bộc bạch thêm những suy nghĩ của mình, không theo một cấu trúc bài viết như thông lệ.
Tháng 7.1995: dấu mốc lịch sử
Đó là vào chiều 11.7.1995, giờ Washington DC, Tổng thống Bill Clinton công bố quyết định quan trọng: “Hôm nay, tôi tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam”. Và, sau đó vài tiếng đồng hồ, vào đầu giờ sáng 12.7, giờ Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt hoan nghênh quyết định trên của Mỹ và đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đó thực sự là quyết định lịch sử mở ra chương mới cho quan hệ hai nước. Có mấy suy nghĩ thêm, xin được chia sẻ ở đây.
![]() |
Ông Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Hoa Kỳ |
Ngay cả thuật ngữ thường dùng là “bình thường hóa” đã cho thấy quan hệ hai nước vốn trước đó là “không bình thường”, thậm chí là “rất không bình thường”! Đó là hai thập kỷ chiến tranh đau thương, khốc liệt (1955-1975), kế tiếp lại là hai thập kỷ của cấm vận và thù địch (1975-1995). Vượt qua nghi kỵ, thù địch, khác biệt và cả nỗi đau chiến tranh trong lòng mỗi nước thời điểm đó không hề dễ dàng.
Ngay sau chiến tranh kết thúc, tức là ngay từ 1975, thực tế hai bên cũng đã có những tiếp xúc và trao đổi về chuyện bình thường hóa quan hệ. Nhưng rồi, những khác biệt và cả nghi kỵ của thời chiến tranh (tại Mỹ vẫn có những người muốn thắng Việt Nam thời hậu chiến), rồi tiếp đến những chuyển biến của cục diện quốc tế - khu vực khi đó, kể cả những tính toán của phía Mỹ trong quan hệ nước lớn, đã khiến cho những cơ hội có thể thiết lập quan hệ giữa hai nước đã bị bỏ lỡ.
Khắc phục hậu quả và hàn gắn vết thương chiến tranh là câu chuyện lớn, vốn rất khó, đã trở thành cầu nối của hiểu biết, xây dựng lòng tin và quan hệ. Việt Nam, trên tinh thần nhân đạo, đã hợp tác tích cực tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích, cái mà sau này phía Mỹ coi là điển hình của hợp tác hai bên. Nhưng, khi đó, không phải Mỹ đã tin Việt Nam ngay vì lại có thêm các thông tin sai lệch, lại còn có những người phía Mỹ chưa muốn bình thường hóa với Việt Nam.
Đó là cả quá trình, cái chính là Mỹ thấy Việt Nam hợp tác thật sự và nhân đạo, thậm chí cho phép phía Mỹ tiếp cận cả những địa điểm, hồ sơ thông thường là mật, là rất hạn chế. Về phía Mỹ, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh ở Việt Nam cũng phải từng bước, từ tháo gỡ bom mìn, qua các tổ chức nhân đạo, rồi đến chính thức hơn, trong ngân sách và sau này mới đến tẩy độc và giúp những người bị nhiễm chất độc da cam.
Việt Nam và Mỹ vốn là cựu thù. Vì vậy quyết định bình thường hóa quan hệ càng có tính lịch sử. Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, đó quả thực là một quá trình nỗ lực rất lớn từ hai phía để vượt qua nhiều trở ngại của mỗi bên. Nỗ lực từ các nhà lãnh đạo, từ các cựu binh, từ các tổ chức xã hội nhân đạo, từ nhân dân hai nước. Không có các nỗ lực đó thì không thể có bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ.
25 năm và những kỳ tích quan hệ
Người ta thường dùng từ “kỳ tích” hay “vượt trên kỳ vọng” để chỉ mối quan hệ Việt-Mỹ, từ cựu thù trở thành đối tác và đối tác toàn diện. Trong dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ vào năm nay, lãnh đạo cấp cao hai nước đã trao đổi thư chúc mừng, trong đó, Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viết: “Trên chặng đường 25 năm qua, quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã vượt qua khoảng cách về địa lý và những khác biệt để phát triển tích cực và ổn định, đưa Hoa Kỳ trở thành một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực”.
Tổng thống Donald Trump cũng gọi quan hệ là “kỳ tích đặc biệt” khi đánh giá: “Sự phát triển của quan hệ đối tác giữa hai nước là kỳ tích đặc biệt. Sự hợp tác ngày nay đã tạo nên nền tảng cho sự tin tưởng và thấu hiểu, cho phép chúng ta thiết lập quan hệ đối tác toàn diện…”.
Quan hệ hai nước hiện nay mang cả tính toàn diện và tầm chiến lược. Đà quan hệ này chắc chắn sẽ càng phát triển và nâng lên nhiều hơn nữa trong thời gian tới
Đúng là trên thế giới ít có những trường hợp từng là cựu thù, có nhiều khác biệt, nhất là về chế độ chính trị xã hội, mà quan hệ lại có thể, chỉ trong một thời gian ngắn, phát triển mạnh mẽ đến vậy, cả về song phương và cả trên những vấn đề quốc tế và khu vực, tức là trên tất cả các lĩnh vực. Chỉ xin đơn cử một số nét lớn.
Trước hết, quan hệ chính trị chung hai nước ngày càng được tăng cường, trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng, cùng có lợi, trong đó có tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Hai bên đã thiết lập khuôn khổ “Đối tác toàn diện” từ 2013.
Đặc biệt, hai bên thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao. Kể từ khi bình thường hóa, cả bốn tổng thống Mỹ đều đã thăm Việt Nam: Clinton (năm 2000), Bush (2006), Obama (2016) và Trump (2017). Về phía Việt Nam, đã có các chuyến thăm: Thủ tướng Phan Văn Khải (2005), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (2007), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2008), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (2013), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2015), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (2017).
Trong đó, lần đầu tiên nước Mỹ đón Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện cao nhất nguyên tắc tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam và hai bên thông qua Tuyên bố tầm nhìn, định hướng phát triển quan hệ ổn định, lâu dài và toàn diện giữa hai nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barack Obama trong chuyến thăm Mỹ năm 2015. Ảnh: Reuters
Về kinh tế, đây được xem là điểm sáng và một trụ cột của quan hệ. Trên thực tế, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có sự phát triển vượt bậc, chỉ trong vòng 25 năm, đã tăng hơn 150 lần, từ chỗ chưa đầy nửa tỷ USD, lên tới 77 tỷ USD hiện nay. Các doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Mỹ rất quan tâm, đầu tư, làm ăn ở Việt Nam. Hiện Mỹ là một trong những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam với tổng trị giá 11 tỷ USD.
Quan hệ về an ninh, quốc phòng ngày càng phát triển. Hai bên thông qua Tuyên bố tầm nhìn hợp tác quốc phòng vào 2015 và hiện đang triển khai kế hoạch hợp tác 3 năm (2018-2021) về hợp tác đào tạo, quân y, ứng phó thảm họa, nâng cao năng lực trên biển, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc. Theo đó, Mỹ đã giúp một số tàu cho cảnh sát biển Việt Nam, tàu sân bay Mỹ đã hai lần thăm cảng Việt Nam (2018 và 2020). Mỹ cũng đã tăng cường hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh, trong đó có việc hoàn tất dự án tẩy độc sân bay Đà Nẵng và đang triển khai dự án tẩy độc sân bay Biên Hòa.
Hai bên cũng đặc biệt đẩy mạnh trao đổi và hợp tác trên các lĩnh vực khác, như khoa học công nghệ, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, du lịch, giao lưu nhân dân. Đáng chú ý là về giáo dục.
Giáo dục - chất xúc tác kết nối quan trọng
Có thể nói giáo dục là lĩnh vực được khởi đầu từ rất sớm, giúp kết nối giữa hai nước và ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Chương trình học bổng Fulbright đã giúp sinh viên Việt Nam sang học tại các trường đại học ở Mỹ từ đầu những năm 1990, trước cả khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại Việt Nam cũng bắt đầu từ 1994 khi Việt Nam triển khai mạnh công cuộc đổi mới, nhằm giúp trang bị các kiến thức quản lý kinh tế hiện đại và hoạch định chính sách của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF), hoạt động từ năm 2000-2015, đã giúp hàng trăm học bổng cho sinh viên Việt Nam theo học đại học và sau đại học tại Mỹ.
Bắt đầu từ 2008, hai bên có chương trình VELP, là diễn đàn đối thoại chính sách cao cấp của Việt Nam do Trường Quản lý Nhà nước Harvard Kennedy (HKS) và Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) đồng tổ chức. Diễn đàn là cơ hội để lãnh đạo cao cấp Việt Nam cập nhật và thảo luận những xu hướng kinh tế chính trị toàn cầu quan trọng nhất và tác động của chúng đối với triển vọng phát triển của Việt Nam.
Trong 25 năm, quan hệ thương mại Việt – Mỹ tăng hơn 150 lần, từ xấp xỉ nửa tỷ USD tăng lên 77 tỷ USD như hiện nay. Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á và đứng thứ 6 thế giới về số lượng sinh viên theo học các trường đại học tại Mỹ (gần 30.000).
Hiện nay Việt Nam đã có gần 30.000 sinh viên theo học tại các trường đại học của Mỹ, đứng đầu Đông Nam Á và đứng thứ 6 trên thế giới. Trong khi phía Mỹ cũng có khoảng 1.200 sinh viên sang học tập, nghiên cứu tại Việt Nam. Điều này giúp tăng cường kiến thức, hiểu biết và nhất là giao lưu thế hệ trẻ của hai nước. Hợp tác giáo dục giữa hai nước càng được tăng cường với quyết định thành lập Đại học Fulbright TP.HCM, một trường đại học tư đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam, dự kiến sẽ trở thành một cơ sở giáo dục danh tiếng và đẳng cấp không chỉ ở Việt Nam mà còn cho cả khu vực.
Đằng sau những kỳ tích phát triển quan hệ
Như trên đã nêu, đằng sau những kỳ tích phát triển quan hệ, thực sự là những nỗ lực rất lớn, của cả hai phía, từ các nhà lãnh đạo, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, kể cả các cựu binh và người dân hai nước.
Sau bình thường hóa, quan hệ chung giữa hai nước thuận hơn rất nhiều nhưng không phải không còn những trở ngại. Chỉ xin đơn cử: phải đến 1998, phía Mỹ mới bãi bỏ áp dụng điều khoản Jackson-Vanick hạn chế quan hệ với Việt Nam; đến năm 2000 hai bên mới ký Hiệp định thương mại song phương; năm 2006 Mỹ mới thông qua luật dành quy chế thương mại vĩnh viễn với Việt Nam và thỏa thuận song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO. Hay tới tận 2016, khi Tổng thống Obama thăm Việt Nam, thì lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam - rào cản cuối cùng còn sót lại từ thời cấm vận, mới được dỡ bỏ hoàn toàn.
Đã có những câu chuyện rất đặc thù giữa hai nước, vượt qua các trở ngại và khác biệt, để làm nên những kỳ tích này.
Thứ nhất, là bài học “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, để bình thường hóa và phát triển quan hệ. Nhưng, khép lại mà vẫn công nhận quá khứ, để cùng hợp tác, khắc phục hậu quả và hàn gắn vết thương chiến tranh, là cái rất đặc biệt và khởi đầu của những khởi đầu, giúp hai bên hiểu biết và xây dựng lòng tin.
Thứ hai, là câu chuyện xây dựng lòng tin, cái được xem là chỗ dựa quan trọng của quan hệ. Cái này phải thông qua hiểu biết và xây dựng, khi mà hai nước vốn từ chiến tranh, thù địch, nghi kỵ, lại khác biệt nhiều mặt. Trước hết, hai bên phải và đã xây dựng được các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ, đó là: tôn trọng, bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi, trong đó tôn trọng thể chế chính trị của nhau là điều đặc biệt quan trọng. Thứ hai là thiết lập khuôn khổ hợp tác ổn định lâu dài, khuôn khổ đối tác toàn diện (2013) và tầm nhìn quan hệ (2015). Thứ ba, về khác biệt, điều sẽ luôn tồn tại và nảy sinh trong quan hệ, phải được xử lý trên tinh thần hiểu biết, xây dựng, tôn trọng lẫn nhau.
Thứ ba, sự đan xen lợi ích, chia sẻ tầm nhìn và cùng có lợi. Rõ ràng, hợp tác đã đem lại lợi ích cho cả hai nước. Trong chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Mỹ, cũng như trên các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Trong khi đó, Mỹ khẳng định nhất quán ủng hộ một Việt Nam “độc lập, vững mạnh và thịnh vượng”. Điều này rất quan trọng, nhất là với Mỹ, cường quốc hàng đầu thế giới.
Và còn nhiều câu chuyện nữa. Chỉ xin nói thêm, từ đau thương chiến tranh, lại có được thế hệ chiến tranh - các cựu binh chiến tranh Việt Nam, ngay trong lòng nước Mỹ, gắn bó với Việt Nam và ủng hộ mạnh mẽ việc phát triển quan hệ giữa hai nước. Điển hình là “hai ông John”: Thượng nghị sĩ John McCain và John Kerry, cùng bao người khác nữa.
Niềm tin hướng tới tương lai
Vượt qua khác biệt, nghi kỵ là khởi đầu rất lớn. Nhưng hai nước đã làm được hơn thế rất nhiều. 25 năm cho thấy rõ: hiểu biết, xây dựng lòng tin và đan xen lợi ích chính là điểm cốt yếu trong quan hệ Việt – Mỹ. Đó là cả một quá trình, là một câu chuyện dài và không dễ, bao gồm cả việc nhân lên những lợi ích song trùng, cho đến cả khi phải xử lý những khác biệt, phức tạp nảy sinh.
Có thể nói, quan hệ hai nước hiện nay đã vượt trên tầm đối tác toàn diện, mang cả tính toàn diện và tầm chiến lược. Đà quan hệ này chắc chắn sẽ càng tiếp tục phát triển và được nhân lên nhiều hơn nữa trong thời gian tới.
Phạm Quang Vinh