Sau khi thắng trận chiến bằng hỏa súng diệt được vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga ở sông Hải Triều (đoạn sông Luộc đổ ra sông Hồng) năm 1390, tướng Trần Khát Chân được phong thái ấp ở vùng Tương Mai. Vị trí vừa gần vừa đủ xa triều đình là lý do để Nguyễn Trãi khi bị thất sủng dưới triều Lê Thái Tổ, đã về ở ẩn một ngôi nhà phía nam kinh thành:
… Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.
(“Thủ vĩ ngâm”, Quốc âm thi tập)
Bài thơ cho biết ngôi nhà phía nam thành Thăng Long thế kỷ XV của Nguyễn Trãi bên một cái ao, dĩ nhiên xác suất một ngôi nhà ven thành bên một cái ao là rất lớn khi ở một vùng trũng là vết tích các chi lưu của sông Hồng để lại. Một cái nhà với vườn ao có lẽ là thực tế chẳng những của đa số dân chúng bên ngoài khu vực phố phường của Kẻ Chợ mà cả những bậc nho sĩ lấy sự tiêu dao làm một phẩm tính của đời sống.
Vào kỳ thi Hội mùa xuân năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi làm chánh chủ khảo đã trình lên vua Lê Thái Tông chọn ra danh hiệu Tam khôi với Trạng nguyên Nguyễn Trực, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, Thám hoa Lương Như Hộc. Nguyễn Như Đổ nhà ở Thanh Trì phía nam kinh thành. Khi đã làm quan, ông viết về ngôi nhà đơn sơ cũng mang phong vị như ngôi nhà góc thành nam của Nguyễn Trãi, với hồ ao và vườn tược bao quanh:
… Mưa tạnh ếch kêu hồ rộn tiếng
Cây râm chim hót bóng đầy sân
Trúc hoa sẵn đủ mùi thanh đạm
Ngày tháng yên vui hưởng thú bần
(Thành nam viên cư, Nguyễn Như Đổ, bản dịch của Lê Thước)
Những vùng “viên cư” nam thành là bến đỗ “hưởng thú bần” của giới nho sĩ làm quan, đối lập với đời sống triều chính cao danh vọng nhưng đầy tai ương chỉ cách đó vài dặm.
Ba con người từng sống ở vùng đất này trong điều kiện sống có lẽ tương đương nhau, song số phận thật khác nhau. Năm 1399, Hồ Quý Ly sau khi ép vua Trần Thiếu Đế dời đô về Tây Đô (Thanh Hóa), đã tổ chức hội thề ở Đốn Sơn. Trần Khát Chân đã cùng triều thần dự định ám sát Hồ Quý Ly song bại lộ. Ông cùng 370 người thuộc hạ và gia quyến bị xử trảm.
Nguyễn Trãi cũng không tránh được tai họa vào mùa thu năm Nhâm Tuất. Vua Lê Thái Tông băng hà ở tuổi 20 tại Lệ Chi Viên (Gia Bình, Bắc Ninh) sau khi được Nguyễn Trãi đón ở Côn Sơn và cho người thiếp là Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Triều đình khép bà tội giết vua và tru di tam tộc gia đình Nguyễn Trãi vào tháng 9.
Trong khi đó, Nguyễn Như Đổ thọ tới 103 tuổi, làm quan trải qua 8 triều vua, ba lần đi sứ, làm tới Thượng thư Bộ Lại và Tế tửu Quốc Tử Giám triều Lê Thánh Tông. Dẫu vậy, người ta nhớ tới ông là nhờ những bài thơ về ngôi nhà dân dã: “Phía nam thành, xuân muộn/ Cửa ván khép lều tranh/ Thềm phủ dấu rêu biếc/ Sân um màu cỏ xanh” (Thư trai xuân mộ, Khương Hữu Dụng dịch).
Ngã ba chia nước sông Sét và sông Lừ ở Tương Mai, Hà Nội năm 2025.
Trở lại với vùng Sét. Vùng tụ thủy này vào thời Lê - Trịnh có tiếng là vùng đất học với dòng họ Bùi ở Thịnh Liệt có nhiều người đỗ đạt, nổi bật là Bùi Huy Bích, người từng làm tới chức Tham tụng (tương đương tể tướng) trong phủ chúa Trịnh. Ông là người đã cho tu sửa đền thờ Chu Văn An ở xã Quang Liệt lân cận với quê ông vào năm 1785. Con mắt của vị đại quan vẫn nhìn ra cảnh quê nơi người thầy thời Trần dạy học: “Sông Tô Lịch xanh quanh nếp ruộng. Vườn vải tươi bọc nếp nhà tranh” (Khúc ngâm trên sông xã Quang Liệt, tạm dịch).
Truyền thuyết về hai anh em người học trò con vua Thủy Tề của Chu Văn An đã lấy mực trong nghiên làm mưa giải hạn, phủ không khí chữ nghĩa lên những đầm Mực, đầm Linh Đường, những khúc sông hồ giữa sông Tô Lịch và Kim Ngưu, mà đặc biệt là những đền miếu trong vùng dành nhiều không gian thờ người có chữ giúp nước cứu dân. Trong đầm Linh Đường (Linh Đàm) có miếu Gàn thờ hai anh em thủy thần, còn đầm nước đã từng có thời “bọc quanh xã Linh Đường, chu vi 12 dặm, hình như trăng lưỡi liềm, nước hồ trong suốt như gương, nên cũng gọi tên là hồ Nguyệt Kính, hồ nhiều hoa sen hạt rất tốt, nên lại gọi là đầm Sen. Có thuế thủy lợi” (Đại Nam nhất thống chí, “Tỉnh Hà Nội”, mục “Núi sông”).
Thời kỳ cuối Lê đầu Nguyễn, cảnh sắc Thăng Long và vùng ngoại vi trở thành một chủ đề thơ vịnh của nhiều danh sĩ. Người gửi gắm nỗi niềm hoài cổ, kẻ thể hiện chí tang bồng, có khi đồng điệu Bà Huyện Thanh Quan với Nguyễn Du, có khi đối chọi nhau chan chát như Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái. Điều đặc biệt là những chốn non nước tiêu dao giữa thời loạn thường được vịnh nhiều nhất. Người anh vợ của Nguyễn Du là Đoàn Nguyễn Tuấn viết về 30 cảnh đất Thăng Long, trong đó có bến đò làng Sét lại có phong khí tươi vui của đời sống đương diễn ra, khác với: “Nam thành vài dặm bến Sét trông… Cầu chín nhịp, bè quan kéo gấp. Lên thuyền tam bản khách thưởng trà. Trải bao phong ba, hồn chẳng sợ. Lòng đầm như lụa, cỏ như nhung” (Liệt tân dã độ, Đoàn Nguyễn Tuấn, tạm dịch).
Trong khi ấy, Nguyễn Du trở lại Thăng Long, chứng kiến “một tòa thành mới lấp cung xưa”, nghe tiếng sáo trong đêm mà không ngủ nổi. Cùng một thời đại, cái nhìn của Đoàn Nguyễn Tuấn có phong khí tươi vui của đời sống đương thời, khác với cảm thức “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu” của người em rể Nguyễn Du.
Từ vùng rìa nước đến không gian tri thức
Khi người Pháp quy hoạch Hà Nội đầu thế kỷ XX, vùng đất nhiều ao hồ phía nam được đặt làm đại lý Hoàn Long, một đơn vị hành chính có tính tạm thời để làm đất dự trữ cho việc mở rộng thành phố. Tuyến đường thiên lý đã không còn quan trọng so với đường cái quan (nay là quốc lộ 1) song song với đường tàu hỏa ở phía đông. Khúc phố Bạch Mai gần với trung tâm hơn nên tính chất đô thị hóa cũng nhiều hơn đoạn đường Trương Định bên dưới.
Năm 1939, thi sĩ Nguyễn Bính đã viết những bài thơ như Người con gái ở lầu hoa lấy bối cảnh phố Bạch Mai hay Tương Mai ở làng Hoàng Mai: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”. Thôn Đông và thôn Đoài trong bài thơ ứng với thực địa của ngôi làng này, “hai thôn chung lại một làng”, song người đọc ít liên hệ điều đó mà nhận diện chúng như một lối diễn tả điển hình cho một làng quê Bắc bộ.
Bản vẽ phương án thiết kế khu Đông Dương học xá tại Bạch Mai năm 1941. Ảnh tư liệu
Cho đến giữa thế kỷ XX, quá trình mở phố ở phía nam Hà Nội vẫn chưa hoàn tất khi khu vực các hồ Thiền Quang, Bảy Mẫu, Ba Mẫu cùng nhiều ao hồ là dấu vết các khúc sông Kim Ngưu, Lừ, Sét chưa bị san lấp. Thậm chí có những tên mới gắn với nghề cá như Trại Cá ở Tương Mai vào thời Pháp tạm chiếm do những người từ Phủ Lý lên nuôi cá bột. Một nhà thơ từ vùng chiêm trũng Nam Định như Nguyễn Bính đương nhiên thấy cảnh làng mạc mênh mang nước của vùng kẻ Mơ vẫn cứ là chất liệu quen thuộc, kể cả khi đã lang bạt bỏ quê mà “đi dan díu với kinh thành”. Một bạn văn của Nguyễn Bính là Nguyễn Đình Lạp đã khắc họa khung cảnh có tính hiện thực gay gắt hơn về đoạn phố Bạch Mai kề cận Ô Cầu Dền:
“Phố ô lầy lội gớm chết. Mặt đường lõng bõng những nước, một thứ nước sánh đặc những bùn… Đường phố ngập bụi mắt cá, trông trắng xóa tựa hồ một bãi cát nóng… Phố hàng mã Bạch Mai ngập đầy nước. Từ bên này hè nhà hàng phố sang bên kia hè, nước mênh mông như một con sông rộng. Hai con đường sắt xe điện cũng bị ngập in hai vết hằn đen dưới mặt nước đục ngầu…” (Ngoại ô, Nguyễn Đình Lạp, 1941).
Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp là một khu vực chưa biết đến chiến tranh, là sân sau của thành phố. Một thập niên sau, những cuộc chiến tranh và cuộc quy hoạch dở dang nhiều thời kỳ đã tạo ra một khung cảnh tạm bợ ở những vùng “rìa nước” tạo ra một xứ Thủy Hử của những xóm bãi rác, xóm liều, những cái tên của xóm ngụ cư suốt dọc từ Vân Hồ rìa hồ Bảy Mẫu đến đê Tô Hoàng, Trại Găng cũng như các vùng đất xen kẹt giữa các làng xã cũ.
“Về phía Nam thành phố, bên bờ Thiền Cuông có một khu tên gọi Bãi Rác. Có người nói không phải Bãi Rác. Tất cả cặn bã, đồ thừa thành phố và trại lính đổ ra đây. Người kiếm ăn không riêng những người nghèo. Có người mấy năm nay xây nhà gạch nhờ buôn bán trên Bãi Rác. Nhưng đông nhất vẫn là lớp người, hàng mấy trăm con người, từ cửa ô Cầu Dền, Tám Mái, Kim Mã và trong khu lao động Vân Hồ, đem hai bàn tay trắng đến đây. Người nghèo túng ấy, đặt chân lên đống rác bập bềnh, cũng biết là đến bước đường cùng kiếm ăn giữa Hà Nội sang trọng…” (Ngoại ô, Trọng Hứa, 1955).
Ngoại ô của Trọng Hứa mô tả thời điểm trước ngày tiếp quản thủ đô năm 1954, khu vực chờ đợi một cuộc thay đổi. Những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước, Bạch Mai chuyển mình thành phố chợ, với chợ Mơ, rồi phố của Đông Dương học xá từ năm 1941. Hồi ức của nhiều sinh viên Nam Kỳ ra Hà Nội ở tại khu học xá đặt tại phía đông đất làng Bạch Mai, giáp những dãy phố cô đầu khu Vạn Thái (ngõ 357 Bạch Mai) và phố thị ngoại ô. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một sinh viên trường Y giai đoạn 1940 - 1944, sau này đã ghi lại hồi ức về con đường nhiều ao chuôm lầy lội từ khu học xá ở Bạch Mai về Ô Cầu Dền, chỉ có tiếng ếch nhái những đêm mưa đã thành cảm hứng cho những bài hát hùng ca.
Một trong bốn tòa nhà của Việt Nam học xá cũ hiện nay tại Bạch Mai, Hà Nội.
Đông Dương học xá xây dựng dở dang do chiến tranh, rồi năm 1945 đổi tên thành Việt Nam học xá. Chính tại khu bốn ngôi nhà đầu tiên của học xá đã diễn ra những cuộc mít tinh của sinh viên trong cao trào giải phóng dân tộc. Năm 1956, khu học xá này trở thành cơ sở của Trường Đại học Bách Khoa và năm 1960, các tòa nhà giảng đường phong cách hiện đại do Liên Xô xây dựng khởi công ở phía nam đường Đại Cồ Việt, bước đầu biến con đê của bức tường lũy Đại La xưa thành một đường phố trong đô thị.
Công cuộc xây dựng khu đại học lớn này phát triển thành một vùng có dáng dấp đô thị đại học với các trường mới bên cạnh Bách Khoa là Xây dựng, Kinh tế Kế hoạch, gọi bằng một tên ghép là Bách-Kinh-Xây. Công việc san lấp lấy đất xây các tòa nhà kéo theo việc thu hẹp dòng chảy sông Kim Ngưu dọc chân đê Đại Cồ Việt và đầu nguồn sông Sét. Các đoạn sông dần tắc nghẽn và đi đến cống hóa, tạo ra một đường phố mới bên trên (phố Trần Đại Nghĩa). Ngày nay chỉ còn duy nhất một mặt nước trong tứ giác Bách-Kinh-Xây là hồ Tiền rộng 0,5 ha trong khuôn viên trường Xây dựng.
“Khô hóa” thực địa và sự “ướt” của ký ức
Trên trục đường thiên lý cũ, cách gọi “phố” Bạch Mai và “đường” Trương Định như tên biển phố đặt từ năm 1964, với cách phân loại “đường” do nằm ở khu vực ngoại vi vành đai, khác với “phố” từ Ô Cầu Dền đến chợ Mơ có nhà ở, cửa hàng và các công trình kiến trúc liên tiếp. Hiển nhiên là mãi cho đến gần đây, con đường Trương Định vẫn còn trong quá trình phát triển với các đoạn phố cắt ngang mới mở, khác với Bạch Mai đã ổn định từ lâu.
Ba thập niên 1960 đến 1980, cùng với sự hình thành cụm công nghiệp Minh Khai - Vĩnh Tuy, đường Trương Định cũng biến thành đường của các nhà máy và khu tập thể, hình thành một khu công nghiệp gồm các nhà máy chế biến thực phẩm: Bột, Kẹo bánh, Đậu phụ, Hoa quả xuất khẩu, Bánh kẹo Hải Hà, nhà máy nước Tương Mai, Bê tông Thịnh Liệt, tập thể lắp ghép Trương Định, Tân Mai… Các mặt nước được lấp tạo quỹ đất cho việc xây dựng quy mô này, không chỉ ở khu vực phía nam Hà Nội. Một bài hát năm 1974 đã kể tới công cuộc này:
Này bạn ơi, trên tầng cao hôm nay tự hỏi, ngành thợ xây của Hà Nội
Từ tập thể Văn Chương, từ Ba Đình, từ Trương Định, từ Mai Dịch, Mai Hương…
(Cô thợ xây còn nhớ - Văn Chung, lời Ngọc Khuyến)
Các khu tập thể như Văn Chương, Trương Định, Mai Hương đều được xây lên từ những vùng nhiều ao hồ ở ven đô trước đây. Tiến trình “khô hóa” các vùng này kéo theo sự biến đổi của lối sống và nghề truyền thống liên quan chế biến thủy sản hoặc dựa vào môi trường nước.
Giờ đây, dọc phố Bạch Mai và Trương Định cũng không còn một mặt nước nào lân cận. Chùa Liên Phái không còn mặt ao làm minh đường soi bóng cho tháp Diệu Quang, cũng như Trại Cá xưa đã lấp những ao hồ làm nên tên đất. Người ta hoặc phải đi xa hơn khỏi trục đường này để thấy vài mặt hồ sót lại như hồ Quỳnh, hồ Kim Đồng, hồ Phương Liệt hay hồ Đền Lừ, hoặc hiện tượng ngập úng khi mưa lớn xảy ra khiến người ta nhớ rằng xưa kia nơi này là vùng tụ thủy phía nam Hà Nội.
Mặt tiền những ngôi nhà cũ trên đường Trương Định.
Trong khung cảnh văn hóa dân gian Hà Nội trước đây, đầm Sét đại diện cho vùng tụ thủy phía nam, đối xứng với hồ Tây phía bắc, tạo ra một cán cân về sản vật. Câu tục ngữ “Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm. Cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây” được truyền tụng thành một “thực đơn” của mâm cơm đồng nội Bắc bộ. Các địa danh đều liên quan đến những vành đai nước bao quanh thành phố. Đầm Sét là một chỉ dấu của đời sống gắn với những mặt nước mênh mông vùng Mơ - Sét của Hà Nội. (Ở đây còn có vải Quang chính là những vườn vải ven sông Tô của làng Quang Liệt, quê hương Chu Văn An đã nhắc đến).
Các mặt nước và dòng chảy tạo ra một hệ sinh thái thiên nhiên làm nên các sản vật, kết nối thành một hệ sinh thái văn hóa đặc sắc. Hai làng Thịnh Liệt và Pháp Vân từng có tiếng với nghề bún ốc, với nguồn cung là ốc đánh bắt ở đầm Sét hay các ao hồ xung quanh, ăn với bún làm ở làng Tứ Kỳ ven hồ Linh Đàm. Những nghề đậu phụ Mơ, bánh cuốn Thanh Trì, đã vượt ra khỏi ranh giới địa lý cụ thể, trở thành những di sản tri thức dân gian nghề thủ công truyền thống không phải tự nhiên mà có. Chúng có được là nhờ một vùng sông hồ nuôi dưỡng nhiều thế hệ cư dân sống thuận theo tính thủy, lại có được sự tài khéo của người ven đô quen tiếp xúc với đời sống tiêu dùng nhiều khắt khe của kinh kỳ.
Sự năng động tháo vát của người vùng ven ở Mơ Sét không phải là cá biệt. Người ta có thể tìm gặp trong những ghi chép của Tô Hoài về vùng Nghĩa Đô phía tây Hà Nội quê ông. Những vùng như Mỗ-La-Canh-Cót “tứ danh hương” hay những Kẻ Lủ, Kẻ Mọc vừa giỏi nghề thủ công vừa nhiều nhân tài phát về đường học vấn những thế kỷ trước cũng tạo ra hào quang của vành đai phù hoa của Kẻ Chợ. Mơ Sét với đặc thù “tính âm” của vùng tụ thủy, tạo ra nét tính cách linh hoạt, mềm dẻo của dân làm nghề thủ công, buôn bán nhưng không đến mức đáo để như dân phố Hàng, có nét tiêu dao lãng mạn song không trội bật như người sống ở vùng hồ to sóng lớn Dâm Đàm, Nhị Hà. Những chút nho nhỏ vừa phải ấy, cùng với không gian nửa làng nửa phố nửa ráo nửa ướt của vùng Mơ Sét khiến nơi này trở thành một phiên bản Hà Nội bàng bạc mà lại gần gũi với số đông.
Bài và ảnh: Nguyễn Trương Quý