Bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, tàu điện ngầm là phương tiện đi rất phổ biến, gắn liền với tầng lớp công nhân Paris, giúp họ tới công xưởng hay nhà máy tập trung chủ yếu trong thành phố. Tới đầu thập niên 1970, tàu điện ngầm trở thành hình ảnh gắn liền với nhịp sống nhanh nhưng có phần buồn tẻ, với khẩu hiệu cho tới giờ vẫn phổ biến: “Métro, Boulot, Dodo” (tàu điện, công việc, giấc ngủ).
Nhiều người Pháp cho rằng, nếu không có Haussmann thì sẽ không có tàu điện ngầm hiện nay. Trong khoảng thời gian từ 1865-1869, Nam tước Georges Eugène Haussmann (1809-1891), lúc đó là Tỉnh trưởng vùng Seine (Paris ngày nay), quy hoạch lại toàn bộ thành phố như hình ảnh Paris ngày nay, với các trục đường lớn và không gian sống thoáng đãng hơn. Nhờ vậy mà các tuyến tàu điện ngầm mới được xây dưới lòng những con phố và đại lộ lớn.
Tuyến đầu tiên, Đường số 1 (màu vàng), chưa có kỹ thuật khoan ngầm nên được xây hoàn toàn lộ thiên. Được khánh thành ngày 19.7.1900, chạy xuyên Paris theo hướng Đông-Tây.
Qua năm 1901, Fulgence Bienvenüe đưa ra tham vọng xây dựng cả một mạng lưới tàu điện ngầm để bất kỳ địa điểm nào trong Paris không cách một bến tàu điện quá 500m. Các tuyến khác lần lượt ra đời và được đánh số theo thứ tự thời gian hoàn thành.
Có thể nhận thấy hệ thống tàu điện ngầm Paris được xây dựng trong một khoảng thời gian kỷ lục, từ 1898 đến 1914. Năm 1910, 6 tuyến đường métro đầu tiên được đưa vào phục vụ công chúng. Cho tới trước Thế Chiến thứ nhất (1914-1918), mạng lưới dài 91 km, gồm 10 tuyến đường và chuyên chở 467 triệu lượt người.
Trong những năm 1920, dân cư sống tại các khu vực ven thủ đô Paris tăng nhanh hơn nên mạng lưới tàu điện ngầm đã được nối dài tới một số thành phố nằm ở ngoại ô (như các tuyến 1, 9, 12).
Năm 1998, một sự kiện mới đánh dấu lịch sử métro Paris, tuyến 14 là tuyến cuối cùng được khánh thành và là tuyến tàu điện ngầm đầu tiên trên thế giới hoàn toàn tự động, không người lái và rất an toàn cho hành khách chờ tàu nhờ hệ thống cửa tự động.
Hầu hết tường và trần của các trạm metro đều được lát gạch men vuông màu trắng vì chúng phản quang. Trước đây, do hệ thống chiếu sáng rất yếu, cứ cách 5m mới có một bóng đèn 15 watt nên cần phải một lớp phủ tường đặc biệt để không mất ánh sáng. Độ sâu trung bình của metro là từ 4 đến 12m. Tuy nhiên, một số bến có độ sâu tới gần 32m, như dưới lòng đồi Chaumont (Buttes Chaumont), ở quận 19, phía bắc Paris.
Từ đường số 1 tới 11 là do thành phố Paris xây dựng. Để nối hai trạm Cité và Saint-Michel trên tuyến số 4, nằm ở hai bên bờ sông Seine, kiến trúc sư Léon Chagnaud đã tạo một đường hầm lớn bằng các giếng chìm làm bằng kim loại, dài từ 20-40m. Các đường ống này được lắp ráp trên bờ, sau đó lần lượt được chôn dưới lòng sông.
Các tuyến 12 và 13 là do tư nhân đầu tư, đó là kỹ sư Berlier. Có thể dễ dàng nhận ra được các tuyến đường của ông nhờ những dấu hiệu sau: Khung viền của các tấm quảng cáo lớn gắn trên tường được lát bằng gạch men nâu, điểm xuyết một vài viên gạch có chữ N và chữ S lồng vào nhau để đánh dấu tuyến đường Bắc (Nord) Nam (Sud). Các tuyến đường của ông là những tuyến đầu tiên có các họa tiết trang trí. Tất cả tầu điện đều được tự động hoá từ năm 1960. Công việc duy nhất hiện nay của người lái tàu là đóng và mở cửa. Tuy nhiên, vì lý do an toàn, họ phải tự lái mỗi ngày ít nhất một lần.
Về việc xây dựng các trạm tàu điện thì vào năm 1968, ý tưởng “bến tàu văn hoá” được ra đời với sự ủng hộ của André Malraux. Ông vừa là nhà văn và là một chính trị gia, phụ trách về lĩnh vực văn hoá của chính phủ. Dần dần, các trạm tàu điện ngầm không chỉ là những điểm qua lại thông thường, mà là nơi truyền tải lịch sử, văn hóa của Paris và nước Pháp.
Trạm Arts et Métiers, trên tuyến 11, lấy cảm hứng từ cách trang trí của Bảo tàng Nghệ thuật và nghề nghiệp (Musée des Arts et Métiers) chuyên trưng bày các loại hình sáng tạo kỹ thuật và công nghệ. Đây là một trong những trạm khiến hành khách ngạc nhiên nhất, vì hoàn toàn được lát bằng ván đồng ghép chặt với nhau bằng đinh tán và được trang trí với những mô hình cửa tàu ngầm Nautilus lấy cảm hứng từ phim 20 vạn dặm dưới đáy biển của Jules Verne.
Trạm Concorde, trên đường 12 mang yếu tố lịch sử. Trên bức tường của trạm là bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền khai sinh nước Cộng hoà Pháp. Mỗi viên gạch lát ghi một chữ cái và không hề có một dấu chấm hay dấu phẩy nào.
Mái che tại trạm Palais-Royal-Musée du Louvre (tuyến 1 và 7) ở lối lên xuống dẫn tới quảng trường Colette mang một phong cách hoàn toàn độc đáo, được nghệ sĩ Jean-Michel Othoniel thực hiện nhân kỷ niệm metro Paris tròn 100 tuổi. Tác phẩm nghệ thuật được gắn từ những quả cầu thuỷ tinh lớn đầy màu sắc tạo nên như một ki-ốt nhỏ sặc sỡ và phá cách. Vì vậy, tác phẩm còn được gọi là “Ki-ốt của những người về đêm” (Kiosque des Noctambules).
Cũng giống như thời kỳ đầu phong cách nghệ thuật mới của Guimard, kiểu dáng trên cũng là chủ đề tranh luận và đàm tiếu vì phá vỡ nét cổ điển sang trọng của khu phố với những công trình nổi tiếng như Nhà hát kịch Pháp, Hội đồng Lập hiến, bảo tàng Louvre hay Hoàng cung…
Đặc biệt, trạm Bastille trên tuyến số 5 được trang trí bằng những phù điêu thuật lại những sự kiện quan trọng của cuộc Cách mạng Pháp, từ thời kỳ bắt đầu cho tới ngày cướp ngục Bastille. Ngoài ra, tại khu vực này còn lưu lại một số vết tích thành cổ.
Cảnh đẹp nhất Paris có thể chiêm ngưỡng được từ metro là đoạn giữa hai trạm Passy và Bir-Hakeim trên đường số 6 dẫn tới tháp Eiffel. Đây là tuyến duy nhất không chạy hết dưới lòng đất mà phần lớn nằm trên cầu cao. Toàn cảnh tháp Eiffel, trước mặt là cây cầu Iéna và hai bờ sông Seine thơ mộng, hoà quyện với nhau tạo thành một bức tranh hữu tình huyền ảo.
Bên cạnh những trạm metro đẹp nhất thì hiện nay ở Paris vẫn còn những trạm tàu điện ngầm bị bỏ hoang, được gọi là “những tạm tàu điện ma”, vì không mở cửa đón khách. Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính phủ áp dụng chính sách giảm bớt tần suất phục vụ và chỉ khai thác 85 trạm, do một phần nhân viên được tổng động viên ra chiến trận. Những năm sau chiến tranh, phần lớn được mở cửa trở lại, tuy nhiên nhiều trạm không được sử dụng thường xuyên, hay quá gần với các trạm lân cận nên vẫn bị ngừng hoạt động, còn một số trạm khác được sử dụng vào mục đích khác hay biến mất theo thời gian. Có 3 trạm bị đóng cửa vĩnh viễn từ năm 1939 là Arsenal, Champ-de-Mars và Croix-Rouge.
Bến Arsenal (nằm ngay cạnh Quai de la Rapée, tầu 5) được cải tạo thành trung tâm đào tạo kỹ thuật viên và kỹ sư điện. Còn bến Croix-Rouge được một nghệ sĩ biến thành bãi biển với những chiếc ghế dài vào những năm 1980.
Hai bến khác được mở cửa trở lại, song do ít hành khách nên đóng cửa là Porte des Lilas-Cinéma và một trong những lối xuống tại bến Invalides. Trạm Porte des Lilas-Cinéma được cho thuê để quay phim hay quảng cáo, trong đó nhiều cảnh trong bộ phim Amélie Poulain nổi tiếng cũng được quay tại đây.
Trong tương lai gần, vào khoảng trước năm 2040, dự án “Tàu điện Paris mở rộng” (Métro du Grand Paris) sẽ được hoàn thành. 155 km đường sắt mới, giao với các tuyến đường đang tồn tại, cho phép hàng chục nghìn người dân Paris và các vùng phụ cận tiết kiệm được rất nhiều thời gian đi lại, và đi được xa hơn.
Tôn Thất Thọ