Bản đồ hiện trạng chất thải rắn hàng ngày ở quy mô đô thị và công nghiệp nói trên do VIETSE phát triển, kỳ vọng là một trong những giải pháp hiệu quả hỗ trợ cho công tác quản lý và giám sát trong lĩnh vực này.
Tiềm năng bản đồ dữ liệu
Kho dữ liệu bản đồ được xây dựng trên phạm vi toàn quốc, và được thực hiện bằng phương pháp nội suy dựa trên số liệu điều tra về lượng chất thải rắn phát sinh hàng ngày trên đầu người tại các tỉnh thành và số liệu điều tra dân cư cấp xã (nguồn từ Bộ Tài nguyên Môi trường và Tổng cục thống kê). Các kết quả phân tích được trực quan hóa trên hệ thống tin địa lý GIS.
Bạn đọc có thể truy cập bản đồ theo địa chỉ: https://vietse.vn/waste-map-vietnam/.
Bản đồ gồm có bốn hạng mục chính: Quản lý chất thải rắn y tế, xây dựng và công nghiệp; Quản lý các cơ sở xử lý rác thải; Các hoạt động thu gom và xử lý rác thải; và Chất thải rắn sinh hoạt.
Ngoài khả năng cung cấp dữ liệu linh hoạt theo yêu cầu người dùng, hệ thống này còn có thể chia sẻ dữ liệu tới nhiều người dùng trên nền tảng điện toán đám mây của Google, cập nhật dữ liệu từ xa, cung cấp khả năng cùng thao tác chỉnh sửa bởi nhiều người dùng tại một thời điểm, cung cấp các công cụ phân tích, tổng hợp dữ liệu theo các chuyên đề khác nhau…
Tại tọa đàm, chuyên gia VIETSE cho rằng đây cũng là hệ thống thông tin GIS về tiềm năng chất thải rắn tại Việt Nam, sẽ góp phần nhận diện tiềm năng lĩnh vực này trong quá trình chuyển dịch năng lượng, giúp giảm ô nhiễm, bảo vệ môi trường. Công cụ này sẽ hỗ trợ cho quá trình ra quyết định đầu tư các dự án xử lý chất thải rắn, xây dựng chính sách quản lý và xử lý chất thải một cách hiệu quả, hiện thực hóa phương châm “rác là tài nguyên”, qua đó đóng góp vào sự phát triển của ngành năng lượng và bảo vệ môi trường.
Trao đổi về công nghệ hiện nay, ông Võ Chí Mỹ, Phó Chủ tịch Hội Trắc địa bản đồ Viễn thám, cho biết chúng ta hiện đã có thể tiếp cận được dữ liệu vệ tinh với tần suất hàng ngày độ phân giải 3-5m. Công nghệ địa không gian đã có thể giám sát được khí nhà kính từ bãi rác thải; được thế giới ứng dụng xây dựng hệ thống hỗ trợ ra quyết định chính xác, nhanh chóng trong quản lý và giám sát môi trường nói chung và chất thải rắn nói riêng (như xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn, dùng phân tích đa tiêu chí để lựa chọn một nơi chôn lấp, lựa chọn đường đi thu gom rác tối ưu nhất,…).
Vòng luẩn quẩn xử lý rác
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng rác thải rắn thu gom tăng gấp đôi trong khoảng thời gian 2015 - 2019, từ mức 32,4 nghìn tấn/ngày lên 65 nghìn tấn/ngày, trong đó 35,6 nghìn tấn/ngày (hơn 50%) đến từ các đô thị, dù dân số nông thôn cao gấp hai lần đô thị. Riêng Hà Nội và TP.HCM, lượng rác thải rắn thải ra là 16.000 tấn rác mỗi ngày, tương đương 33,6% cả nước.
Thống kê năm 2019, chỉ 85% lượng rác thải rắn thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, tăng 10% so với năm 2015. Chính phủ đặt mục tiêu tới năm 2025 tăng tỷ lệ xử lý này lên 90% với rác thải ở đô thị và 85% ở khu vực nông thôn, phấn đấu xử lý 100% vào năm 2050.
Tuy nhiên phương thức quản lý và xử lý rác thải áp dụng hiện nay còn khá hạn chế, chủ yếu vẫn là chôn lấp. Nhiều bãi chôn lấp đã bị vượt công suất, gây ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm đất, không khí...
Các công nghệ xử lý rác thải rắn, nhất là công nghệ phát điện từ rác còn gặp nhiều thách thức ở Việt Nam do đặc thù thành phần rác thải (độ ẩm cao, 80-90% là chất hữu cơ), hơn 20 năm vẫn chưa thực hiện được việc phân loại rác tại nguồn, vấn đề giá cả, quản lý, các hạn chế trong chính sách, cơ chế…
Kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2013, đến hết 2019, Việt Nam phải xây dựng được 229 cơ sở xử lý rác. Nhưng tới cuối 2021, thống kê mới chỉ 85% số cơ sở được hoàn thành, tức còn tới 65 cơ sở vẫn đang trong quá trình xây dựng, trong đó gồm 31 bãi chôn lấp.
Tại hội thảo, bà Trần Hải Anh, chuyên gia tư vấn cao cấp về môi trường, cho rằng các công nghệ xử lý là một phần quan trọng của chu trình xử lý rác thải. Tuy nhiên dù áp dụng công nghệ nào thì yếu tố tiên quyết vẫn là tính chất của rác thải và nhu cầu của chủ đầu tư. Ngoài ra tính khả thi về măt kinh tế cũng là một trong những điều kiện tiên quyết trong viêc lựa chọn công nghệ phù hợp.
Lê Quỳnh