Bản đồ sụt lún mới nhất của TP.HCM:

Sụt lún phải là dữ liệu đầu vào của quy hoạch đô thị

 09:36 | Thứ ba, 21/10/2025  0
Siêu đô thị TP.HCM đang đối diện thách thức: sụt lún diễn ra trên diện rộng từ trung tâm đến ngoại thành. Điều đó được minh chứng bằng dữ liệu khoa học từ hình ảnh radar vệ tinh chụp liên tục trong một thập kỷ. Công trình khoa học vừa công bố cuối tháng 8.2025 do PGS-TS. Lê Trung Chơn (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM) và cộng sự thực hiện cho thấy tốc độ lún tại TP.HCM dao động 2 - 8 cm/năm, thậm chí có nơi vượt con số này. Kết hợp với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nguy cơ “thành phố chìm dần” không còn là viễn cảnh.

Trao đổi với Người Đô Thị, PGS-TS. Lê Trung Chơn làm rõ thêm một số vấn đề. Ông nói: “Bài toán sụt lún của TP.HCM bắt đầu được đề cập từ những năm 2005 - 2006 do PGS-TS. Lê Văn Trung (Phó chủ tịch Hội Trắc địa Bản đồ TP.HCM) áp dụng kỹ thuật viễn thám radar để quan trắc sụt lún lấy cảm hứng từ một bài báo khá thú vị nói về tình trạng này ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Một trong những người tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực này là TSKH. Hồ Tống Minh Định, học trò thầy Lê Văn Trung và tôi. Bản thân tôi ngay khi tốt nghiệp nghiên cứu sinh từ Liên bang Nga đã tham gia khóa huấn luyện về viễn thám radar do Cơ quan Không gian châu Âu tổ chức tại Việt Nam tháng 12.1997. 

Năm 2007, TP.HCM phê duyệt một dự án quan trắc sụt lún đất sử dụng kỹ thuật giao thoa radar khẩu độ tổng hợp (InSAR), do Hội Trắc địa Bản đồ, Trung tâm Địa tin học thuộc Đại học Quốc gia và Bộ môn Địa tin học của Trường Đại học Bách khoa thực hiện. Nhật Bản đã hỗ trợ dự án bằng cách chia sẻ dữ liệu viễn thám radar.  

Từ 2007 - 2011, dữ liệu thu thập được cho thấy bức tranh sụt lún rõ ràng trên toàn thành phố với độ lún 3 - 4 cm/năm. Các khu vực như Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp đều có hiện tượng sụt lún. Đến giai đoạn 2015 - 2020, các vùng Tân Cảng, Kinh Tẻ, Kinh Đôi… ghi nhận độ lún trên 5 cm/năm. Tôi kể câu chuyện đó để chúng ta hiểu bước đi dài đến các nghiên cứu hôm nay”.

PGS-TS. Lê Trung Chơn. Ảnh: Quốc Ngọc


Sụt lún từ trung tâm đến ngoại thành 

Công nghệ radar vệ tinh mà nhóm nghiên cứu sử dụng mang đến những kỳ vọng gì, thưa ông?

Chúng tôi sử dụng công nghệ InSAR, kết hợp hai kỹ thuật PS (điểm phản xạ bền vững) và DS (tán xạ phân tán) giúp việc xác định mật độ điểm lún càng ngày càng tăng lên và mức độ chi tiết cao hơn rất nhiều so với các thuật toán khác. Cách này cho phép quan sát cả những khu vực có nhiều công trình đô thị lẫn những vùng đất trống, ven sông. Dữ liệu đến từ các vệ tinh Sentinel-1 (C-band) và COSMO-SkyMed (X-band) trong giai đoạn 2014 - 2025.

Radar vệ tinh cho phép quan sát từ không gian, bao phủ diện tích rộng và phát hiện dịch chuyển nhỏ chỉ vài milimét mỗi năm. Chúng tôi kết hợp dữ liệu từ nhiều vệ tinh và nhiều quỹ đạo để tách riêng chuyển dịch thẳng đứng và chuyển dịch ngang. Độ chính xác đã được kiểm chứng với số liệu thủy chuẩn mặt đất, sai số chỉ trên dưới 4,4 mm/năm.

Nhóm nghiên cứu mong muốn cung cấp dữ liệu khoa học tin cậy để TP.HCM có thể giảm khai thác nước ngầm, quản lý phát triển đô thị và chống ngập hiệu quả hơn. Nghiên cứu cũng mở đường cho việc ứng dụng AI và các vệ tinh radar mới trong tương lai nhằm giám sát lún với độ phân giải cao, cập nhật liên tục.

Những số liệu mới nhất cho thấy bức tranh bi quan về một thành phố đang “chìm dần”?

Sụt lún diễn ra trên diện rộng, từ trung tâm đến ngoại thành. Có nơi tốc độ lún lên tới 8 cm/năm. Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là dọc sông Sài Gòn, theo trục tây bắc - đông nam, cùng với khu quận 7 và quận 8 (trước đây) ở phía tây nam thành phố. Đây là những nơi mà kết quả từ cả hai bộ dữ liệu vệ tinh đều chỉ ra sự lún rõ rệt. Dĩ nhiên sụt lún khiến nguy cơ ngập lụt tăng mạnh, đặc biệt khi kết hợp với tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Nó cũng làm hư hại hạ tầng giao thông, công trình xây dựng, hệ thống thoát nước.

Nguyên nhân lún khá tương đồng thành phố Bắc Kinh với hai nhóm chính: Yếu tố tự nhiên TP.HCM nằm trên nền địa chất yếu, đặc biệt là các lớp trầm tích trẻ Holocene rất dễ bị nén. Yếu tố con người khai thác nước ngầm quá mức là nguyên nhân chính, làm hạ thấp áp lực lỗ rỗng trong đất, dẫn đến nén chặt. Bên cạnh đó đô thị hóa nhanh với nhiều công trình xây dựng gia tăng tải trọng tĩnh lên nền đất yếu, cộng với tải trọng động từ hoạt động giao thông càng làm vấn đề trầm trọng hơn.

Toàn cảnh tốc độ lún mặt đất tại TP.HCM bằng kỹ thuật InSAR từ năm 2015 đến nay, được nhóm của PGS-TS. Lê Trung Chơn công bố cuối tháng 8.2025. Đáng lưu ý những nơi có tốc độ lún nhanh lại là những nơi có địa hình thấp. Nếu kết hợp với mực nước biển dâng trung bình 3,4 mm/năm thì những vùng màu đỏ và vàng thực sự là rủi ro. Ảnh từ phần mềm TomoSAR


Ngoài ra, các vùng trọng điểm chịu ảnh hưởng nặng nề tập trung ở những khu vực có cao độ địa hình thấp và địa chất yếu. Các khu vực sụt lún nghiêm trọng đã được xác định bao gồm vùng Nam Sài Gòn ghi nhận mức độ sụt lún đáng kể. Như đã nói, dọc theo sông Sài Gòn có hiện tượng sụt lún lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều khu vực như bán đảo Thanh Đa, khu Hiệp Bình Phước và Thảo Điền.

Sụt lún có mối liên hệ chặt chẽ với đặc điểm địa hình và địa chất của thành phố. Hơn 50% diện tích TP.HCM có cao độ chỉ 1 - 2m so với mực nước biển, đặc biệt là các vùng phía nam. Ngược lại, khu vực trung tâm đô thị như quận 1 trước đây có địa chất ổn định hơn và cao độ hơn 4 - 5m, phản ánh sự phù hợp của quy hoạch từ thời nhà Nguyễn với địa thế tự nhiên chính là thành Gia Định. Hiện tượng sụt lún cũng được ghi nhận ở một số vùng phụ cận, điển hình là Bình Dương tại các vị trí dọc theo sông Sài Gòn. 

Khai thác nước ngầm thường được xem là nguyên nhân chính gây sụt lún. Vậy mức độ tác động của yếu tố này so với các nguyên nhân khác như tải trọng công trình, địa chất yếu hay biến đổi khí hậu,… có sự khác biệt ra sao?

Thực tế cho thấy có những khu vực trước đây luôn ghi nhận lún, bây giờ hầu như không còn. Thậm chí vùng tây bắc thành phố vốn có cao trình tốt mà một thời cũng từng có lún, sau không thấy nữa. Chính xác là nhờ không còn cho khoan giếng bừa bãi từ lệnh cấm của UBND TP.HCM khoảng năm 2012 trở đi. Và nếu như hồi đó mới chỉ là “quy định của thành phố” thì hiện giờ đã được luật hóa với Luật Tài nguyên Nước năm 2023 quy định rõ ràng, chặt chẽ và nghiêm ngặt đối với việc khai thác nước ngầm.

Trở lại hiện trạng sụt lún ở TP.HCM là một câu chuyện phức tạp. Về mặt khoa học, như tôi đã nói, hai nhóm nguyên nhân chính là yếu tố tự nhiên và con người. Yếu tố con người là nhóm nguyên nhân trực tiếp, đáng lo ngại nhưng dễ điều chỉnh, kiểm soát. Bên cạnh khai thác nước ngầm đã kiểm soát tương đối tốt, vấn đề đô thị hóa đi kèm bê tông hóa đáng lo ngại. Khi những vùng đất trống bị phủ kín bởi bê tông và nhựa đường, tức là lớp phủ bề mặt mất đi diện tích thoát nước tự nhiên, nước mưa không thể thấm xuống để cấp bù cho mạch nước ngầm. Quá trình này khiến đất bên dưới bị thiếu nước, gây ra hiện tượng co ngót và sụt lún.

Một nhóm nguyên nhân tạm gọi là thứ ba, chính là yếu tố kết hợp. Sự kết hợp giữa mực nước triều dâng hàng năm và lượng nước từ thượng nguồn đổ về càng làm vấn đề trở nên nghiêm trọng. Khi mưa lớn hoặc thủy điện xả lũ, triều cường dâng cao sẽ gây áp lực lớn lên các vùng có địa hình thấp và đã bị sụt lún.

Theo tôi, để có một câu trả lời chính xác về tỷ lệ tác động của từng nhóm nguyên nhân, phải chờ kết quả nghiên cứu và phân tích dữ liệu. Dựa trên mô hình của Bắc Kinh, yếu tố địa chất có khả năng là nguyên nhân chính yếu, nhưng chúng tôi vẫn cần những con số cụ thể cho TP.HCM. Với dữ liệu quan trắc đã có liên tục từ năm 2015 đến nay, chúng tôi đang sử dụng các thuật toán học máy để đánh giá. Kết quả cuối cùng sẽ được công bố khi đề tài hoàn thành, dự kiến vào tháng 11 năm sau. Khi đó chúng ta sẽ có một bức tranh hoàn chỉnh, chính xác để đưa ra các giải pháp quy hoạch và kỹ thuật phù hợp cho thành phố.

Sụt lún diễn ra trên diện rộng, từ trung tâm đến ngoại thành TP.HCM. Có nơi tốc độ lún lên tới 8cm/năm. Trong ảnh: Sạt lở bờ kênh Thanh Đa thuộc phường Thạnh Mỹ Tây (trước là phường 25, quận Bình Thạnh) khiến nhiều nhà dân có nguy cơ đổ sập. Ảnh: Trung Dũng


Có thể dự báo sự thay đổi cao độ địa hình của một khu vực 

Theo nhìn nhận của ông, chính quyền các cấp tại Việt Nam thường có phản ứng kịp thời hay không mỗi khi tiếp nhận các dữ liệu khoa học mang tính cảnh báo?

Tôi không biết các đề tài khác ra sao nhưng với câu chuyện này, có cảm nhận nhóm nghiên cứu được ủng hộ. Chúng tôi nhận được sự quan tâm lớn từ UBND TP.HCM. Sau khi các dữ liệu được công bố, chính quyền thành phố đang xúc tiến các dự án hợp tác tiếp theo, trong đó có một dự án với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Hiện cơ quan cấp sở của thành phố đã lập bộ phận chuyên trách theo dõi các công trình liên quan đến sụt lún. Điều này khẳng định TP.HCM là địa phương tiên phong và kiên trì nhất cả nước trong giải quyết vấn đề này.

“Bản đồ sụt lún” với vô số điểm vàng, đỏ biểu thị mức độ 2-8 cm/năm cho thấy kiểm soát khai thác nước ngầm hay các biện pháp tương tự hình như chưa đủ. “Cuộc chiến giành lại độ cao cho TP.HCM” cần những giải pháp chiến lược?

Tôi cho rằng đã đến lúc TP.HCM phải coi yếu tố sụt lún là một dữ liệu đầu vào không thể thiếu trong quá trình lập quy hoạch tổng thể. Lâu nay dữ liệu đầu vào cho quy hoạch thường chỉ bao gồm bản đồ địa hình, địa chất mà thiếu đi những thông tin quan trọng về các rủi ro như sụt lún.

Trước đây, khi chưa có dữ liệu chính xác, việc bỏ qua có thể được chấp nhận. Nhưng hiện tại, với những con số đã được kiểm chứng bằng công nghệ vệ tinh, thành phố cần phải đưa yếu tố này vào để xác định rõ vùng nào bị ảnh hưởng và mức độ ra sao. Chúng tôi kiến nghị cần làm ngay, đặc biệt khi thành phố đang trong quá trình điều chỉnh quy hoạch.

Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể. Giả sử một khu vực như vùng quận 7 cũ, có cao độ hiện tại là 1,5m so với mực nước biển. Với tốc độ sụt lún trung bình 5 cm/năm thì chỉ sau 10 năm, cao độ của khu vực đó chỉ còn 1m. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với mọi bài toán quy hoạch hạ tầng và các công trình liên quan. Nếu quy hoạch không tính đến sự thay đổi về cao độ này theo thời gian, các công trình sẽ không đảm bảo được tính bền vững, hiệu quả trong tương lai và nguy cơ ngập lụt sẽ gia tăng đáng kể.

Vấn đề địa chất là một chuyện, đã có các giải pháp công trình tương ứng. Nhưng yếu tố quan trọng mà quy hoạch thường bỏ qua là sự thay đổi của mặt đất theo thời gian. Đây là lý do chúng ta cần đưa những dữ liệu này vào quy hoạch để đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững cho thành phố.

Việc tích hợp dữ liệu sụt lún mang lại một tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển đô thị. Khi lập quy hoạch, chúng ta có thể dự báo được sự thay đổi cao độ địa hình của một khu vực trong tương lai, từ đó đưa ra các quyết định chính xác hơn. Chẳng hạn, một khu vực có địa hình vững chắc sẽ ổn định, trong khi một vùng đất yếu có thể sụt lún thêm nửa mét sau 10 năm hoặc cả mét sau 50 năm. Nhờ dữ liệu này, chúng ta có thể đưa ra những lựa chọn đúng đắn, nơi nào nên quy hoạch khu dân cư và đi kèm với những giải pháp công trình, chống ngập phù hợp. Đơn cử như khu vực Nhà Bè, dữ liệu cho thấy dọc theo đường Nguyễn Bình và Phước Kiển đang chịu ảnh hưởng sụt lún đáng kể. Điều này phải được tính toán kỹ lưỡng khi phát triển hạ tầng.

Đây cũng là triết lý “sống thuận thiên”, lấy đặc điểm tự nhiên làm cơ sở cho mọi quyết định quy hoạch.

Nghiên cứu mới công bố nhấn mạnh nếu có bản đồ lún cập nhật và tin cậy, chính quyền hoàn toàn có thể chủ động “đi trước một bước”. Vấn đề còn lại là sự quyết tâm trong hành động. Tất cả phải được khởi động ngay khi những con số từ không gian còn kịp vang lên hồi chuông cảnh tỉnh.

Dọc theo sông Sài Gòncó hiện tượng sụt lún lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều khu vực. Ảnh: Lương Ý


Có vẻ như quy hoạch cốt nền vẫn là một “thách thức” bị bỏ ngỏ lâu năm trong phát triển đô thị của TP.HCM, thưa ông?

Vâng, chúng ta vẫn thiếu một quy hoạch cốt nền xây dựng toàn diện. Hầu hết các công trình xây dựng, thậm chí các dự án hạ tầng đường sá, đều chỉ bám theo cao độ mặt đường hiện hữu mà không có sự thống nhất về cốt nền cho từng khu vực. Điều này dẫn đến tình trạng cốt nền bị thay đổi tùy tiện.

Nếu có một quy chuẩn bài bản, tính toán kỹ lưỡng dựa trên các yếu tố như địa hình, hệ thống thoát nước và giao thông, TP.HCM sẽ có cơ sở vững chắc để xây dựng hạ tầng đồng bộ. Đây là yếu tố then chốt để giải quyết bài toán chống ngập một cách căn cơ, bởi nếu không, việc này sẽ luôn là một quá trình tốn kém và không có hồi kết.

Việc tích hợp dữ liệu sụt lún vào quy hoạch đô thị cũng có ý nghĩa đối với việc thu hút đầu tư và đảm bảo sự phát triển bền vững của TP.HCM?

Thực chất sụt lún là một hiện tượng tự nhiên kết hợp với tác động của con người, chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn mà phải học cách chung sống. 

Chúng tôi kiến nghị xây dựng một hệ thống dự báo sụt lún chi tiết, có thể dự đoán tốc độ lún trong 5 - 10 năm tới. Dữ liệu này cần được chia sẻ rộng rãi đến cộng đồng, bao gồm cả các nhà đầu tư bất động sản và người dân. Khi người dân biết rõ khu vực nào sụt lún nhiều, họ sẽ có những quyết định đúng đắn hơn và thị trường bất động sản cũng sẽ phản ánh chính xác hơn giá trị thực của tài sản.

Tôi muốn nhấn mạnh lại phải coi dữ liệu sụt lún là một đầu vào vô cùng quan trọng cho quy hoạch đô thị và phát triển một hệ thống mô phỏng dự báo để hỗ trợ thành phố. Điều này sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định dựa trên cơ sở khoa học, từ đó tối ưu hóa lời giải cho bài toán ngập lụt. Việc xác định chính xác vị trí, tốc độ và nguyên nhân lún là bước đi đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp.

Trong 10 - 20 năm tới, ông dự báo TP.HCM sẽ đối diện viễn cảnh nào nếu không có biện pháp đủ mạnh?

Nếu không quyết liệt thì các khu vực sụt lún nghiêm trọng như Nam Sài Gòn sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề. 

Sụt lún đất là một thách thức toàn diện đối với các đô thị. Nếu nhìn dài hạn, đây là lý do khiến Jakarta (Indonesia) phải dời đô. Tại Việt Nam, nhiều thành phố lớn ở đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đối mặt với tình trạng tương tự. Đơn cử, tốc độ lún của Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu hay Cà Mau không hề thua kém TP.HCM. Việc xây dựng một số công trình lớn như kênh Quan Chánh Bố ở Trà Vinh cũng đã gây lún đáng kể.

Với TP.HCM, chúng tôi đang tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu hơn để hỗ trợ công tác quản lý đô thị. Hiện chúng tôi đang nghiên cứu tác động của tuyến metro Bến Thành - Suối Tiên lên tình trạng sụt lún tại các khu vực lân cận. Tải trọng động từ các phương tiện giao thông, đặc biệt là hệ thống đường sắt đô thị là một yếu tố cần được đánh giá kỹ lưỡng, tương tự như mô hình đã được chứng minh tại Bắc Kinh.

Một trong những mục tiêu sắp tới của chúng tôi là xây dựng bản đồ sụt lún chi tiết với tỷ lệ 1/25.000, phân loại các khu vực theo tốc độ lún khác nhau, giúp các nhà quản lý và quy hoạch có cái nhìn trực quan, chính xác hơn.

Nhận định độ lún của TP.HCM gấp nhiều lần mực nước biển dâng không phải là cường điệu. Mực nước biển dâng trung bình chỉ khoảng 1 - 2 cm/năm, trong khi một số khu vực của TP.HCM đang lún với tốc độ gấp đôi. Điều này tạo ra một thách thức lớn. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng mực nước biển dâng là hiện tượng toàn cầu, còn sụt lún chỉ xảy ra ở một số khu vực cụ thể.

Do đó, thách thức của TP.HCM là phải xác định chính xác chỗ nào đang lún, lún với tốc độ ra sao, nguyên nhân là gì để từ đó đề ra những giải pháp quy hoạch và công trình phù hợp. Việc đối diện với sự thật này là bước đi đầu tiên để xây dựng một thành phố kiên cường trước các biến đổi của tự nhiên.

Xin cảm ơn ông và hy vọng các nghiên cứu tiếp theo sớm được công bố.

Lời cảnh báo về chính sách đô thị

Theo TSKH. Hồ Tống Minh Định (Viện Nghiên cứu Nông nghiệp, Thực phẩm và Môi trường quốc gia Pháp), nhóm nghiên cứu đã sử dụng công nghệ SBAS InSAR. Đây là kỹ thuật phân tích chuỗi ảnh radar từ vệ tinh Sentinel-1 (2015 - 2025). Với độ phân giải 50m, nhóm đã dựng được bản đồ tốc độ lún cho từng ô đất, cho thấy một bức tranh đáng báo động: nhiều khu vực của TP.HCM đang lún vài chục milimét mỗi năm. Quan trọng hơn cả, lún không chỉ xuất hiện ở những vùng trũng ven đô mà đã lan rộng, bao phủ cả khu vực trung tâm và các quận có tốc độ đô thị hóa nhanh. Nền đất yếu kết hợp với khai thác nước ngầm quá mức trở thành “tử huyệt” của đô thị.

So với những nghiên cứu trước, SBAS InSAR có ưu thế vượt trội ở chỗ giảm thiểu nhiễu khí quyển, khắc phục tình trạng mất tín hiệu radar. Điều này giúp kết quả chính xác hơn, sai số nhỏ hơn, đặc biệt là có thể theo dõi sự biến đổi theo thời gian dài. Nhóm nghiên cứu còn định hướng kết hợp thêm các thuật toán PSDS và TomoSAR, vốn có khả năng nâng độ phân giải lên tới 20m và xử lý khối dữ liệu khổng lồ. Đây là một bước tiến đáng kể cho việc giám sát đô thị ở Việt Nam.

Sự kiện Việt Nam phóng vệ tinh radar JV-LOTUSat (2025) càng mở ra cơ hội để chủ động nguồn dữ liệu. Khi kết hợp dữ liệu quốc tế với “mắt thần” này, khả năng xây dựng hệ thống giám sát lún quốc gia hoàn toàn nằm trong tầm tay.

Các con số từ không gian không chỉ để tham khảo mà xứng đáng là lời cảnh báo chính sách. Bởi sụt lún không tồn tại độc lập. Nó cộng hưởng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tạo thành nguy cơ “kép” đe dọa TP.HCM. Một thành phố đang lún xuống sẽ dễ dàng bị nhấn chìm khi mưa lớn, triều cường hay bão biển tràn tới.

Nam Anh

Quốc Ngọc thực hiện

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.